VBQPPL:
- Luật TTHC (Điều 83, 84, 98, 133 và 134)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
• Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật TTHC để giải quyết vụ án.
• Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập thành biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ:
- Tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ;
- Số bản, số trang của tài liệu, chứng cứ và thời gian nhận;
- Chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án;
- Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ án hành chính và một bản giao cho đương sự nộp tài liệu, chứng cứ giữ.
• Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt được công chứng, chứng thực hợp pháp.
• Thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ấn định nhưng không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm quy định tại Điều 130 Luật TTHC.
• Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp trước đó thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ (khoản 2 Điều 133 Luật TTHC):
- Nếu lý do chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ là chính đáng thì HĐXX chấp nhận việc giao nộp tài liệu, chứng cứ đó;
- Nếu đương sự nêu lý do nhưng lý do không chính đáng thì Tòa án không chấp nhận việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó, nhưng phải lập luận việc không chấp nhận tài liệu, chứng cứ đó trong bản án, quyết định của Tòa án.
• Lưu ý: Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán, HĐXX yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án (đoạn 1 mục 2 Phần I Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC).
• Theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật TTHC, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải thông báo cho đương sự khác biết về việc họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không thông báo cho đương sự khác biết thì:
- Tòa án phải giải thích, hướng dẫn cho đương sự là họ có nghĩa vụ thông báo cho các đương sự khác biết về việc họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án;
- Yêu cầu đương sự đó thực hiện đúng nghĩa vụ thông báo để đương sự khác liên hệ với Tòa án thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ;
- Trường hợp có tài liệu, chứng cứ chưa được thông báo cho đương sự thì Tòa án thực hiện việc thông báo cho họ biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ đó (mục 4 Phần I Giải đáp số 02/2016/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC).