4.1.3. Xác định chính xác tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi
VBQPPL:
- BLTTHS (Điều 416, Điều 417)
- Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH (Điều 6)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• Xác định chính xác ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi là một trong những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (khoản 1 Điều 416 BLTTHS ). Việc xác định chính xác ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội có ý nghĩa hết sức quan trọng, xem người đó đã đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; nếu đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì khi phạm tội họ bao nhiêu tuổi và khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi hay chưa, để thực hiện đúng các quy định của BLHS đối với họ cũng như áp dụng đúng quy định của BLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
• Cần phải dùng mọi biện pháp để xác định độ tuổi của họ. Thông thường, việc chứng minh độ tuổi của người bị buộc tội, người bị hại do CQĐT và VKS thực hiện; cho nên trong trường hợp tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa có đầy đủ căn cứ để xác định độ tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
• Trong trường hợp CQĐT, VKS đã tiến hành mọi biện pháp cần thiết, nhưng không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh thì cần xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 417 BLTTHS và hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH.
• Phải xem xét đến mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục; nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội (Điều 416 BLTTHS ).